NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA ĐẢNG BỘ, PHÁT HUY SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT, HUY ĐỘNG TỐI ĐA MỌI NGUỒN LỰC CHO ĐẦU TƯ, ĐƯA CAO BẰNG TRỞ THÀNH TỈNH NĂNG ĐỘNG, PHÁT TRIỂN
(Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Cao Bằng khóa XVII tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII)
Phần thứ nhất
KẾT QUẢ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ TỈNH LẦN THỨ XVII, NHIỆM KỲ 2010 - 2015
Trong 5 năm qua, Đảng bộ tỉnh Cao Bằng lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII trong điều kiện, bối cảnh có nhiều khó khăn thách thức: khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế thế giới kéo dài, tác động kinh tế trong nước suy giảm, lạm phát tăng cao, nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính, sản xuất kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm; nguồn lực đầu tư cho phát triển hạn chế; thiên tai, dịch bệnh xảy ra ở nhiều nơi trên địa bàn tỉnh… gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống của nhân dân.
Bên cạnh những khó khăn, tỉnh luôn nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, sự giúp đỡ của các ban, bộ, ngành Trung ương; sự hợp tác của các tỉnh, thành, các tổ chức quốc tế, các doanh nghiệp... Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trong tỉnh luôn nêu cao tinh thần đoàn kết, phát huy nội lực, năng động, sáng tạo, vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, quyết liệt, linh hoạt trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành; ban hành nhiều cơ chế, chính sách phù hợp thu hút các nguồn lực cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, kết cấu hạ tầng, bảo đảm quốc phòng - an ninh trên địa bàn tỉnh.
I- NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
1- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực; công tác quản lý, điều hành ngân sách nhà nước thực hiện chặt chẽ, hiệu quả; tổng vốn đầu tư toàn xã hội có bước tăng trưởng khá
Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) đạt bình quân 9,2%/năm, bằng 82% so với mục tiêu Nghị quyết Đại hội; thu nhập bình quân đầu người đạt 20,8 triệu đồng; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp, tăng dần tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, trong đó, công nghiệp, xây dựng tăng từ 20% lên 20,4%, dịch vụ tăng từ 47,7% lên 51,3%; nông, lâm, ngư nghiệp giảm từ 32,3% xuống 27,62% so với năm 2010.
Nông nghiệp tiếp tục có bước tăng trưởng, bình quân hằng năm tăng 3,3%, tổng sản lượng lương thực đạt trên 250.000 tấn/năm. Các cây trồng hàng hoá mũi nhọn tiếp tục được quan tâm chỉ đạo, diện tích, sản lượng các cây trồng tăng qua các năm, đến năm 2015: mía nguyên liệu đạt 4.266 ha, sản lượng 199.635 tấn; thuốc lá đạt 3.689 ha, sản lượng 7.580 tấn; trúc sào đạt 3.268 ha, diện tích đã cho khai thác 1.600 ha. Giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 35 triệu đồng/ha, vượt mục tiêu Nghị quyết Đại hội.
Chăn nuôi có bước phát triển khá, giá trị sản lượng hằng năm tăng trên 7%, chiếm trên 32% trong cơ cấu ngành nông nghiệp; kinh tế trang trại, gia trại đã được hình thành và phát triển, một số sản phẩm như thịt bò, lợn đen địa phương bước đầu xây dựng được thương hiệu và mở rộng thị trường tiêu thụ.
Công tác quy hoạch, quản lý bảo vệ rừng được thực hiện tốt; thu hút được một số doanh nghiệp đầu tư vào trồng rừng sản xuất gắn với chế biến. Tỷ lệ che phủ rừng đạt 50,7%, bằng 92,2% mục tiêu Nghị quyết Đại hội.
Các chương trình mục tiêu Quốc gia được triển khai tích cực, diện mạo nông thôn có nhiều đổi mới. Đến nay, 100% xã có đường ô tô đến trung tâm xã; 99% số xã có điện lưới đến trung tâm; cơ bản các xóm vùng sâu, vùng xa đều có điểm trường; 100% xã có trạm y tế; 68% số xóm có nhà văn hoá; 17,4% chợ nông thôn được xây dựng, cải tạo, nâng cấp theo quy hoạch, bảo đảm các điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm; đến năm 2015, tỷ lệ người dân nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt 85%, cơ bản giải quyết được nhu cầu nước sinh hoạt cho đồng bào vùng Lục Khu, Hà Quảng; thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn đạt 12,9 triệu đồng/người/năm, tăng 6 triệu đồng so với năm 2010. Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới được cả hệ thống chính trị quan tâm chỉ đạo thực hiện; tổ chức thực hiện tốt việc huy động, lồng ghép các nguồn vốn từ chương trình mục tiêu, các tổ chức, doanh nghiệp và người dân tham gia xây dựng nông thôn mới. Đến nay, toàn tỉnh có 01 xã đạt 19 tiêu chí, 10 xã đạt 10 – 14 tiêu chí; 93 xã đạt 05 – 09 tiêu chí; 73 xã đạt 02 – 04 tiêu chí.
Công tác di dân, ổn định, bố trí dân cư được quan tâm, tổ chức di dân ra khỏi vùng nguy cơ thiên tai 353 hộ, di dân ra biên giới 97 hộ với tổng số tiền hỗ trợ 9,5 tỷ đồng.
Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tiếp tục ổn định. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng trưởng bình quân 0,44%/năm. Một số sản phẩm công nghiệp vẫn được duy trì sản xuất như: thiếc thỏi, mangan, gạch, xi măng, cát sỏi, tre trúc, điện, nước sinh hoạt, đường kính...; các dự án đầu tư từ giai đoạn trước được triển khai thực hiện hoàn thành và đưa vào hoạt động, tăng thêm năng lực sản xuất công nghiệp như: nhà máy Feromangan Tây Giang, nhà máy thủy điện Bản Rạ, Thoong Cót II (Trùng Khánh), nhà máy thủy điện Nà Tẩư (Quảng Uyên); các dự án trọng điểm của tỉnh tiếp tục được triển khai thực hiện như: Khu liên hiệp Gang thép Cao Bằng, dự án khai thác mỏ quặng sắt Nà Rụa (thành phố Cao Bằng), dự án khai thác chì, kẽm Bản Bó (Bảo Lâm); các khu, cụm công nghiệp bước đầu đã thu hút được một số doanh nghiệp tham gia đầu tư và triển khai các dự án. Các nghề truyền thống được duy trì phát triển như: nghề đúc rèn, nghề chạm khắc bạc, dệt, đan lát, làm giấy dó... Triển khai việc tái cơ cấu và sắp xếp lại các cơ sở sản xuất công nghiệp kém hiệu quả, tạo cơ chế cho các cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phát huy năng lực sản xuất, đến năm 2015, toàn tỉnh có trên 1.500 cơ sở hoạt động sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp.
Hệ thống thương mại, dịch vụ được mở rộng, mạng lưới chợ được quan tâm đầu tư, lưu thông hàng hoá thuận lợi, cung cầu hàng hoá đảm bảo. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ trên địa bàn năm 2015 đạt 6.643 tỷ đồng, bình quân mỗi năm tăng 15,6%. Các dịch vụ vận tải, ngân hàng, bảo hiểm, tư vấn, khách sạn, nhà hàng, siêu thị phát triển nhanh, cơ bản đáp ứng nhu cầu phát triển. Công tác phòng, chống buôn lậu, hàng giả, gian lận thương mại được duy trì thường xuyên; các mặt hàng thiết yếu được phục vụ kịp thời, đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới.
Công tác quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường được triển khai nghiêm túc, đồng bộ, hiệu quả; hoàn chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp tỉnh, cấp huyện giai đoạn 2011 - 2020; triển khai thực hiện dự án khoanh định vùng cấm, tạm cấm hoạt động khoáng sản trên địa bàn; hoàn thành dự án xây dựng cơ sở dữ liệu địa chất - khoáng sản tỉnh Cao Bằng; công tác quản lý, khai thác, vận chuyển khoáng sản, việc phòng, chống thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu được thực hiện tốt, giải quyết dứt điểm việc khai thác khoáng sản trái phép gây ô nhiễm nguồn nước trên sông Hiến, sông Bằng; xử lý một số vi phạm và khắc phục những sai sót trong công tác quản lý đất đai, quản lý đô thị, vấn đề tái định cư và giải phóng mặt bằng cho các dự án.
Các trung tâm nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ được đầu tư nâng cấp, các đề tài nghiên cứu khoa học từng bước gắn liền với thực tiễn, sản xuất và đời sống của nhân dân. Trong nhiệm kỳ đã có 80 đề tài, dự án khoa học, công nghệ được áp dụng vào thực tế; việc ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ đã gắn với sản xuất nông nghiệp, khai thác hiệu quả các cây trồng có lợi thế, đặc thù của địa phương, như: chè chất lượng cao Phia Đén; cam Trưng Vương, quýt Hà Trì, Trà Lĩnh; lê Thạch An, Bảo Lạc, Nguyên Bình, lúa nếp hương Bảo Lạc và một số cây dược liệu khác… Tỷ lệ giống mới đưa vào sản xuất ngày càng tăng cao, giống thuốc lá mới đạt 100% diện tích, giống lúa mới đạt 30% diện tích, giống ngô mới đạt 80% diện tích. Thực hiện có hiệu quả các hoạt động sở hữu trí tuệ, quan tâm xây dựng nhãn hiệu tập thể đối với các sản phẩm có thế mạnh của địa phương. Thường xuyên thanh tra, kiểm tra chuyên ngành về sở hữu công nghiệp, nhãn hàng hóa, tiêu chuẩn đo lường chất lượng, xử lý các vi phạm theo quy định.
Các thành phần kinh tế tiếp tục phát triển tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, góp phần tích cực vào đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xoá đói giảm nghèo ở địa phương; đã hoàn thành Đề án sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước giai đoạn từ 2012 trở về trước; hiện nay còn 4 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, 03 doanh nghiệp cổ phần hóa nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ. Thành lập mới được 460 doanh nghiệp, 53 hợp tác xã; đến nay, toàn tỉnh có 1.143 doanh nghiệp, 381 hợp tác xã, 15.513 hộ kinh doanh cá thể.
Hoạt động của các tổ chức tín dụng được duy trì ổn định và phát triển, các dịch vụ ngân hàng ngày càng đa dạng, chất lượng được nâng cao, cơ bản đáp ứng nhu cầu về đầu tư phát triển; ưu tiên vốn vay cho các lĩnh vực kinh tế trọng điểm, vay vốn phát triển nông nghiệp, nông thôn; các nguồn vốn chính sách xã hội được giải ngân đến đúng đối tượng, góp phần tạo việc làm, phát triển kinh tế - xã hội. Tỷ lệ tăng trưởng tín dụng bình quân đạt trên 18%/năm.
Thu ngân sách nhà nước được tập trung chỉ đạo quyết liệt, thực hiện có hiệu quả 03 Đề án thu ngân sách; đến năm 2015, tổng thu ngân sách trên địa bàn đạt trên 1.280 tỷ đồng, tăng gấp 02 lần so với năm 2010, bình quân tăng 17%/năm. Chi ngân sách địa phương đảm bảo đúng chế độ, tập trung cao hơn cho đầu tư phát triển, tốc độ tăng bình quân 9%/năm.
Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội có bước tăng trưởng khá, giai đoạn 2010 - 2015 đã huy động được trên 34.000 tỷ đồng, gấp 02 lần so với giai đoạn 2005 - 2010, tăng bình quân 9,5%/năm.
2- Hạ tầng kinh tế - xã hội được cải thiện, các khu kinh tế cửa khẩu, điểm du lịch được quan tâm đầu tư;Thị xã Cao Bằng được công nhận đô thị loại III và trở thành Thành phố trực thuộc tỉnh
Công tác quy hoạch, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là vùng động lực được quan tâm đầu tư và thực hiện có hiệu quả; đã hoàn thành quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, các huyện và Thành phố đến năm 2020; quy hoạch chung xây dựng thị trấn Hùng Quốc và khu vực cửa khẩu Trà Lĩnh, giai đoạn 2009 – 2025; quy hoạch chung xây dựng thị trấn Tà Lùng, huyện Phục Hòa, giai đoạn 2012 - 2030. Triển khai thực hiện quy hoạch khu kinh tế cửa khẩu, khu du lịch, cụm công nghiệp của tỉnh; quy hoạch chi tiết xây dựng khu Trung tâm hành chính tỉnh tại khu đô thị mới Đề Thám... Các đồ án quy hoạch xây dựng sau khi phê duyệt đều được tổ chức công bố công khai bằng nhiều hình thức. Một số quy hoạch đã được cắm mốc chỉ giới trên thực địa. Công tác cấp giấy phép xây dựng đã được các cấp chính quyền quan tâm chỉ đạo, tình trạng xây dựng không đúng quy hoạch, không có giấy phép xây dựng từng bước được khắc phục.
Việc xây dựng kế hoạch phân bổ nguồn vốn xây dựng cơ bản từ nguồn vốn ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ và các chương trình mục tiêu đảm bảo công khai, đúng quy định pháp luật, phù hợp với quy hoạch, định hướng phát triển và tập trung hơn cho các mục tiêu quan trọng, nhu cầu bức thiết của xã hội. Tập trung vốn thanh toán cho các công trình đã hoàn thành; kiểm soát chặt chẽ các dự án khởi công mới; tích cực thu hút các nguồn vốn ODA và lồng ghép các nguồn vốn đầu tư để đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình trọng điểm…Bước đầu khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, kém hiệu quả.
Hạ tầng đô thị được tập trung đầu tư phát triển, Thị xã Cao Bằng được công nhận đô thị loại III và trở thành Thành phố trực thuộc tỉnh vào năm 2012, hoàn thành trước 3 năm so với Nghị quyết Đại hội; các trung tâm huyện lỵ tiếp tục được đầu tư, chỉnh trang; các dự án hạ tầng đô thị được đẩy nhanh tiến độ, một số dự án đã hoàn thành đưa vào sử dụng và phát huy hiệu quả; hoàn thành một số hạng mục tại khu đô thị mới Đề Thám như: Trung tâm Hội nghị tỉnh, Quảng trường trung tâm và một số các công trình hạ tầng khác...
Thực hiện Chương trình phát triển hạ tầng giao thông giai đoạn 2011 -2015, đến nay có một số dự án đã hoàn thành như: đường Hồ Chí Minh, đường tỉnh lộ 206, 212, các tuyến đường ra cửa khẩu và một số tuyến đường khác. Mở mới được 435 km đường huyện, 285,7 km đường xã, 702 km đường thôn, xóm; cải tạo, nâng cấp 414 km đường huyện, 10,5 km đường xã; nhựa hóa 60% đường huyện; cứng hoá 34,7% mặt đường tuyến xã, 41,7% đường thôn xóm; xây dựng mới được 08 cầu treo; xây mới và sửa chữa cầu bê tông cốt thép, bản, liên hợp, cầu tràn được 61 cầu. Công tác bảo trì các tuyến đường từ tỉnh đến thôn xóm được triển khai đồng bộ. Hệ thống giao thông đảm bảo thông suốt, đáp ứng nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hóa của nhân dân.
Chương trình phát triển kinh tế cửa khẩu được tập trung chỉ đạo thực hiện có hiệu quả, thu hút được nhiều nguồn lực từ nhà đầu tư trong và ngoài nước, góp phần thúc đẩy giao lưu kinh tế đối ngoại. Năm 2014, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định thành lập Khu kinh tế cửa khẩu tỉnh Cao Bằng trên cơ sở sáp nhập 03 khu kinh tế cửa khẩu Tà Lùng, Trà Lĩnh, Sóc Giang. Trong nhiệm kỳ, đã thu hút được 49 dự án đầu tư (trong đó có 08 dự án đầu tư nước ngoài) với tổng vốn đăng ký là 30,8 triệu USD và trên 3.123 tỷ đồng, đến nay có 20 dự án hoàn thành và đi vào hoạt động, bước đầu phát huy hiệu quả, tạo công ăn việc làm cho lao động tại địa phương. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu qua địa bàn đến năm 2015 đạt trên 2 tỷ USD, tăng bình quân 30,9%/năm.
Hoạt động du lịch có chuyển biến tích cực, cơ sở hạ tầng các khu, điểm du lịch của tỉnh được quan tâm đầu tư;tăng trưởng du lịch bình quân đạt 16%/năm. Đã triển khai đầu tư xây dựng một số khu, điểm du lịch có tiềm năng lợi thế như: Khu di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt Pác Bó, Đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Pác Bó, Khu di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt Rừng Trần Hưng Đạo, Khu du lịch thác Bản Giốc, chùa Phật tích Trúc Lâm Bản Giốc, hoàn thành giai đoạn I Khu nghỉ dưỡng cao cấp Sài Gòn Bản Giốc Resort. Hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bá du lịch được đẩy mạnh; lượng khách trong nước và quốc tế đến Cao Bằng tham quan, du lịch tăng cao, năm 2015 đón trên 650.000 lượt khách du lịch, tăng 20,3% so với năm 2010; doanh thu du lịch đạt 114,3 tỷ đồng, tăng 232,4% so với năm 2010.
3- Các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá - xã hội, thông tin, truyền thông phát triển theo hướng tăng về quy mô và nâng cao về chất lượng
Mạng lưới trường, lớp học tiếp tục được củng cố, phát triển, chất lượng giáo dục, đào tạo không ngừng được nâng cao. Toàn tỉnh hiện có 669 trường học và trung tâm, tăng 164 trường so với năm 2010, trong đó có 70 trường đạt chuẩn quốc gia, tăng 50 trường so với năm 2010; 100% xã, phường, thị trấn có trung tâm học tập cộng đồng. Cơ sở vật chất trường lớp học được tăng cường đầu tư, tỷ lệ phòng học kiên cố đạt 58,2%, bán kiên cố đạt 32,4%, phòng học tạm 9,4%. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục cơ bản đủ về số lượng, 100% giáo viên mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông đạt chuẩn về trình độ đào tạo; chất lượng đội ngũ nhà giáo không ngừng được nâng lên, cơ bản đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đổi mới giáo dục. Tỷ lệ học sinh khá, giỏi cấp trung học phổ thông đạt 39%, tăng 8% so với năm 2010; học sinh hoàn thành chương trình tiểu học, tốt nghiệp trung học cơ sở đạt 99,5%; tỷ lệ học sinh thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng năm 2014 là 35,58%, tăng 10,58% so với năm 2010.
Chương trình phổ cập giáo dục và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo cơ bản hoàn thành mục tiêu đề ra. Tháng 10/2012, Cao Bằng được Bộ Giáo dục và Đào tạo công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi mức độ I; phổ cập giáo dục trung học cơ sở được duy trì và giữ vững, đến hết năm 2015 hoàn thành mục tiêu phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi.
Mạng lưới y tế từ tỉnh đến cơ sở thường xuyên được quan tâm củng cố, chất lượng khám chữa bệnh không ngừng được nâng lên. Đầu tư, nâng cấp, cải tạo 02 bệnh viện tuyến tỉnh, 14 bệnh viện đa khoa huyện, Thành phố; xây mới 03 trung tâm y tế huyện; đầu tư xây dựng 70 trạm y tế xã đạt chuẩn quốc gia; từng bước đầu tư trang thiết bị y tế hiện đại cho Bệnh viện đa khoa tỉnh, Bệnh viện y học cổ truyền; đầu tư trang thiết bị y tế cơ bản, thiết yếu cho bệnh viện đa khoa tuyến huyện, trang bị máy siêu âm 08 trạm y tế xã. Các cơ sở y tế thường xuyên đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật, tiếp nhận chuyển giao thành công nhiều tiến bộ y học mới phục vụ chẩn đoán và điều trị bệnh. Quan tâm nâng cao y đức, tăng cường bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ y, bác sỹ; đến nay, toàn tỉnh có 10,2 bác sỹ/vạn dân, 31,4 giường bệnh/vạn dân; có 75/199 xã, phường đạt tiêu chí quốc gia về y tế xã, 85% trạm y tế xã có bác sỹ. 100% trạm y tế xã thực hiện khám chữa bệnh bảo hiểm y tế, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế tại cơ sở.
Công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình tiếp tục được triển khai có hiệu quả, quy mô dân số ổn định, chất lượng dân số từng bước được nâng cao. Các chương trình mục tiêu Quốc gia về y tế được triển khai thực hiện tốt, tích cực chủ động phòng ngừa và kịp thời ứng phó với các dịch bệnh, các vấn đề sức khỏe liên quan đến vệ sinh môi trường. Tỷ lệ tăng dân số được kiểm soát, mức tăng dân số tự nhiên giảm còn 0,92%; hằng năm trên 90% trẻ em dưới 01 tuổi được tiêm chủng đầy đủ 8 loại vắc xin; tỷ lệ trẻ dưới 05 tuổi suy dinh dưỡng giảm còn 19,9%.
Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" gắn với chương trình xây dựng nông thôn mới tiếp tục được thực hiện có hiệu quả. Toàn tỉnh có 80% gia đình, 50% xóm, tổ dân phố, 90% cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn văn hóa; các thiết chế văn hóa ở cơ sở từng bước được đầu tư xây dựng, đến nay có 1.705 nhà văn hoá xóm, tổ dân phố, đạt tỷ lệ 68%; có 38 nhà văn hoá xã, đạt tỷ lệ 19%. Phong trào thể dục, thể thao tiếp tục phát triển rộng khắp với nhiều hình thức phong phú, chất lượng được nâng lên. Quan tâm đào tạo vận động viên năng khiếu, tập huấn các đội tuyển của tỉnh tham dự các giải khu vực và toàn quốc. Tổ chức thành công Đại hội thể dục thể thao tỉnh Cao Bằng lần thứ VII năm 2014.
Công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa đặc sắc được quan tâm; thực hiện dự án bảo tồn làng văn hoá dân tộc Tày Khuổi Ky (Đàm Thuỷ, Trùng Khánh), làng nghề Phia Chang (Phúc Sen, Quảng Uyên), đề tài sưu tầm nghiên cứu dân ca, dân vũ của người Sán chỉ... Khôi phục và nâng cao nội dung một số lễ hội. Tổ chức thành công nhiều sự kiện chính trị, xã hội quan trọng, nổi bật là Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày Bác Hồ về nước; Lễ công bố di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt Pác Bó, Chương trình du lịch qua những miền di sản Việt Bắc và công bố thành lập Thành phố Cao Bằng; Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, 25 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân và công bố di tích Quốc gia đặc biệt Rừng Trần Hưng Đạo.
Bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và truyền thông, báo chí, xuất bản phát triển mạnh và đang từng bước được hiện đại hóa; hoạt động của các cơ quan báo chí có nhiều đổi mới, chất lượng nội dung, hình thức tuyên truyền từng bước được nâng cao; đã xuất bản Báo điện tử Cao Bằng, tỷ lệ phủ sóng Đài Tiếng nói Việt Nam đạt 98% dân số, tỷ lệ phủ sóng Đài Truyền hình Việt Nam đạt 93% dân số. Hạ tầng cơ sở dịch vụ bưu chính, viễn thông từng bước được đầu tư xây dựng, đã xây dựng 671 trạm thu phát sóng di động; 25 bưu cục, 152 điểm bưu điện văn hoá xã; 85% xã phường, thị trấn được trang bị thiết bị truyền thanh; 100% xã, phường, thị trấn có sóng di động, truy cập được Internet, tỷ lệ điện thoại cố định và di động đạt 97 máy/100 dân.
Công tác xóa đói, giảm nghèo, đào tạo nghề, giải quyết việc làm và đảm bảo an sinh xã hội được triển khai đồng bộ; các chương trình mục tiêu, dự án, chính sách hỗ trợ vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được thực hiện có hiệu quả, đã đầu tư xây dựng được 732 công trình cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, hỗ trợ phát triển sản xuất cho 54.534 lượt hộ nghèo, tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho cán bộ cơ sở và cộng đồng được 511 lớp với 26.707 lượt người tham gia. Tỷ lệ hộ nghèo hằng năm giảm trên 4%, đến nay tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh còn 20,05%. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 34%, trong đó đào tạo nghề 25,5%; tạo việc làm cho 49.232 lao động, trong đó xuất khẩu lao động 1.065 người; giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị xuống còn 4,5%. Các chế độ chính sách đối với thương binh, gia đình liệt sỹ, người có công, đối tượng chính sách được thực hiện tốt. Các hoạt động đền ơn đáp nghĩa được đẩy mạnh; công tác bảo trợ xã hội được duy trì thường xuyên; công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp được tổ chức thực hiện tốt, đảm bảo quyền lợi của các đối tượng tham gia. Công tác bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ, bảo vệ chăm sóc trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật và phòng chống tệ nạn xã hội được quan tâm thực hiện có hiệu quả; công tác cứu trợ xã hội, khắc phục hậu quả thiệt hại do thiên tai gây ra được giải quyết kịp thời.
Công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực tôn giáo được quan tâm chỉ đạo thường xuyên; các tổ chức tôn giáo hoạt động đúng pháp luật, các tín đồ, giáo dân tham gia nhiệt tình các phong trào thi đua yêu nước do địa phương phát động.
4- Quốc phòng - an ninh được củng cố, công tác đối ngoại được tăng cường, bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới quốc gia
Triển khai có hiệu quả các Chương trình hành động về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc, kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng - an ninh, duy trì nghiêm chế độ sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ quốc gia; tổ chức thực hiện có hiệu quả phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”,“Quần chúng tham gia tự quản đường biên mốc quốc giới, an ninh trật tự xóm bản khu vực biên giới”, góp phần quan trọng vào việc phòng ngừa, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch.
Lực lượng công an, quân sự, biên phòng làm tốt công tác tham mưu giúp cấp ủy, chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng - an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Nắm chắc tình hình, giải quyết tốt những vấn đề về an ninh chính trị, đặc biệt là an ninh tôn giáo, dân tộc, an ninh nội bộ; chủ động phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm, không để xảy ra tình huống bị động, bất ngờ.
Các hoạt động đối ngoại luôn đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Đảng và sự quản lý tập trung thống nhất của chính quyền địa phương, tuân thủ các quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước, đảm bảo sự phối hợp giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân. Việc quản lý đoàn vào, đoàn ra, đón tiếp và làm việc với các đoàn ngoại giao, các tổ chức quốc tế được thực hiện theo đúng quy định của Nhà nước. Quan hệ hợp tác với các tổ chức quốc tế, đại sứ quán các nước tại Việt Nam được mở rộng và phát triển, kêu gọi thu hút được nhiều dự án đầu tư, phát triển. Quan hệ hữu nghị giữa chính quyền địa phương hai tỉnh Cao Bằng, Việt Nam và tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc ngày càng được mở rộng, hợp tác trên nhiều lĩnh vực để phát huy tiềm năng thế mạnh của địa phương phục vụ phát triển kinh tế - xã hội; tăng cường đối ngoại nhân dân với nhiều hình thức như tiếp xúc, giao lưu, thăm hỏi kết nghĩa... tạo mối quan hệ đoàn kết, hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân hai bên biên giới. Các lực lượng chức năng đã duy trì và thực hiện tốt các hoạt động đối ngoại trong việc quản lý, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia, giữ vững an ninh trật tự khu vực biên giới, xây dựng biên giới hoà bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển; phối hợp triển khai thực hiện nghiêm túc các văn kiện pháp lý về biên giới, cửa khẩu, đất liền Việt Nam – Trung Quốc.
5- Công tác cải cách tư pháp, phòng chống tham nhũng và giải quyết khiếu nại tố cáo được triển khai đồng bộ, hiệu quả
Tiếp tục chỉ đạo triển khai thực hiện tốt Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật được triển khai đồng bộ đến cơ sở; chất lượng hoạt động của các quan điều tra, truy tố, xét xử, hỗ trợ tư pháp, thi hành án từng bước được nâng lên. Hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có chuyển biến tích cực, kịp thời giải quyết các vụ án, vụ việc phát sinh; các vụ án được đưa ra xét xử đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không xảy ra tình trạng án oan sai, bỏ lọt tội phạm. Công tác tiếp công dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo được quan tâm chỉ đạo, nhiều vụ việc tồn đọng kéo dài được giải quyết dứt điểm, số lượng đơn thư vượt cấp giảm so với những năm trước đây.
Thực hiện nghiêm túc có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 3 (khoá X) về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí”; quan tâm chỉ đạo, đưa nội dung phòng chống tham nhũng vào chương trình giảng dạy của Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện, Thành phố và các cơ sở giáo dục đào tạo của tỉnh; mở hòm thư tố giác và đường dây nóng tiếp nhận thông tin phòng chống tham nhũng; thực hiện ký kết Bản cam kết không tham nhũng và kê khai tài sản thu nhập đối với cán bộ, công chức, viên chức; thực hiện tốt việc chuyển đổi vị trí công tác theo quy định của Chính phủ. Xử lý kịp thời các vấn đề phát sinh, các vụ việc có dấu hiệu tham nhũng, lãng phí đảm bảo hiệu quả, đúng pháp luật.
Trong nhiệm kỳ, thanh tra các cấp, ngành tiến hành 1.143 cuộc thanh tra, kiểm tra về kinh tế - xã hội, phát hiện sai phạm trị giá trên 40 tỷ đồng, kiến nghị thu hồi, khắc phục hậu quả trên 29 tỷ đồng. Các cơ quan tố tụng của tỉnh khởi tố 10 vụ án với 18 bị can có liên quan đến hành vi tham nhũng, đã truy tố và đưa ra xét xử 08 vụ với 13 bị cáo.
6- Công tác xây dựng Đảng được coi trọng và có chuyển biến tích cực, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng được nâng cao; hoàn thành mục tiêu 100% xóm có chi bộ và chuẩn hoá đội ngũ cán bộ cơ sở
Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng có nhiều đổi mới; trách nhiệm của các cấp uỷ đảng trong việc giáo dục, quản lý cán bộ, đảng viên được tăng cường; nhận thức chính trị, tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân được nâng cao. Chú trọng việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, quán triệt và cụ thể hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng vào tình hình thực tế của địa phương. Chủ động nắm bắt tình hình tư tưởng của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân; làm tốt công tác định hướng các hoạt động thông tin báo chí, xuất bản, tuyên truyền các ngày lễ, kỷ niệm, các sự kiện chính trị, kinh tế, văn hoá nổi bật của đất nước và của tỉnh.
Triển khai thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 03-CT/TW, ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, đưa việc thực hiện chuẩn mực đạo đức vào những việc làm cụ thể trong công tác, đời sống hàng ngày, góp phần làm chuyển biến nhận thức, hành động của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong việc học tập và làm theo Bác.
Lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghiêm túc việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay", chỉ đạo khắc phục có hiệu quả những khuyết điểm, hạn chế đã được chỉ ra sau kiểm điểm như: chấn chỉnh tình trạng thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu ý thức tổ chức kỷ luật trong một bộ phận cán bộ đảng viên; đổi mới về nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; rà soát, bổ sung quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đảm bảo số lượng, tiêu chuẩn, cơ cấu, độ tuổi, giới tính, thành phần dân tộc trong quy hoạch của các cấp, các ngành; mở rộng phạm vi lấy ý kiến, giới thiệu có số dư trước khi bổ nhiệm cán bộ; chấn chỉnh lại các cơ quan, đơn vị, tổ chức đảng hoạt động kém hiệu quả; giải quyết kịp thời một số vấn đề nổi cộm, dư luận quan tâm và nhiều vụ việc tồn đọng, kéo dài từ nhiều năm trước đây, qua đó tăng cường niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng.
Công tác tổ chức cán bộ có nhiều đổi mới, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng và hệ thống chính trị được nâng cao. Đảng bộ tỉnh đã triển khai thực hiện đồng bộ ở các khâu: quản lý, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển, bố trí, sử dụng cán bộ. Trong nhiệm kỳ, đã kiện toàn, sắp xếp, chia tách, sáp nhập, thành lập mới 384 tổ chức cơ sở đảng; kết nạp được 13.588 đảng viên, nâng tổng số đảng viên của toàn Đảng bộ tỉnh lên 48.197 đảng viên, chiếm tỷ lệ khoảng 9,2 % so với tổng dân số của tỉnh; đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, lý luận chính trị cho 11.027 cán bộ; kiện toàn 364 cán bộ, trong đó điều động 91 cán bộ, luân chuyển 26 cán bộ; hầu hết các đồng chí được điều động, luân chuyển đã phát huy tốt năng lực, chủ động, sáng tạo trong công tác, cùng tập thể cấp uỷ, cán bộ, đảng viên thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị ở địa phương, đơn vị. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ, bảo vệ Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị được thực hiện tốt theo Quy định số 57-QĐ/TW của Bộ Chính trị về “Một số vấn đề về công tác bảo vệ chính trị nội bộ Đảng”, Quy định số 47-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về “Những điều đảng viên không được làm”.
Thực hiện Chương trình nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở giai đoạn 2011 - 2015, Đề án chuẩn hóa đội ngũ cán bộ cơ sở giai đoạn 2012 - 2015, đã có 1.488 cán bộ, công chức cấp xã được cử đi đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ và lý luận chính trị; thực hiện chính sách nghỉ việc đối với 341 cán bộ, công chức cấp xã không đạt chuẩn và không đủ điều kiện đào tạo lại; tuyển chọn được 308 trí thức trẻ để bố trí các chức danh công chức cấp xã; đến nay, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã đã đạt chuẩn về trình độ chuyên môn theo quy định. Năm 2010, toàn tỉnh còn 278 xóm chưa có chi bộ, đến hết tháng 11/2013, 100% xóm (2.480/2.480 xóm) đã có chi bộ, hoàn thành trước 02 năm so với mục tiêu Nghị quyết Đại hội.
Công tác phổ biến, tuyên truyền về nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng được tăng cường, nhận thức, ý thức, trách nhiệm của cấp uỷ, tổ chức đảng và người đứng đầu được nâng cao. Các cấp uỷ luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát, thường xuyên củng cố, kiện toàn uỷ ban kiểm tra và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra các cấp. Trong nhiệm kỳ, cấp ủy các cấp đã kiểm tra 3.955 lượt tổ chức đảng, 5.817 lượt đảng viên; giám sát 1.402 lượt tổ chức đảng, 3.244 lượt đảng viên; xử lý kỷ luật 07 tổ chức đảng, 270 đảng viên vi phạm. Uỷ ban kiểm tra các cấp chủ động tiến hành các cuộc kiểm tra, giám sát theo đúng quy định của Điều lệ Đảng; đã tiến hành kiểm tra 25 tổ chức đảng cấp dưới và 351 đảng viên có dấu hiệu vi phạm; giải quyết đơn thư tố cáo đối với 02 tổ chức đảng, 125 đảng viên; giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng đối với 08 đảng viên; kiểm tra 115 tổ chức đảng về thu, chi ngân sách và 2.094 lượt tổ chức đảng về thu nộp, sử dụng đảng phí, quản lý tài chính đảng...; giám sát được 648 lượt tổ chức đảng, 1.623 đảng viên; xử lý kỷ luật theo thẩm quyền đối với 89 đảng viên vi phạm. Công tác kiểm tra, giám sát đã góp phần nâng cao chất lượng tổ chức đảng và đảng viên, giữ gìn kỷ cương của Đảng, góp phần hạn chế sai phạm.
Hệ thống dân vận các cấp thường xuyên được củng cố, kiện toàn, phương thức công tác dân vận được đổi mới về nội dung và hình thức hoạt động, hướng mạnh về cơ sở và địa bàn dân cư; cấp uỷ, chính quyền các cấp thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo triển khai có hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Nhà nước về công tác dân vận; công tác vận động quần chúng, công tác dân tộc, tôn giáo, quy chế dân chủ ở cơ sở; phong trào thi đua “Dân vận khéo” được triển khai sâu rộng; các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước được nhân dân đồng tình ủng hộ và thực hiện; mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân ngày càng được củng cố và tăng cường. Nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, công tác quản lý, điều hành của chính quyền các cấp; tích cực tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền vững mạnh, tạo được sự đồng thuận cao trong xã hội, góp phần củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc.
7- Chính quyền các cấp thường xuyên được củng cố kiện toàn, công tác quản lý điều hành có nhiều đổi mới và hiệu quả
Công tác cải cách hành chính được chỉ đạo triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ và đạt được những kết quả tích cực. Đã thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy, quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các sở, ban, ngành thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh và các phòng chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện; 100% đơn vị sự nghiệp công lập trên địa bàn tỉnh hoàn thành xây dựng Đề án vị trí việc làm, xác định danh mục vị trí việc làm và số người làm việc; 70% đơn vị hành chính hoàn thành việc xây dựng Đề án vị trí việc làm theo quy định của Chính phủ. Thực hiện có hiệu quả việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; quan tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số ít người (Mông, Dao, Sán Chỉ, Lô Lô...); tích cực triển khai việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành, giải quyết công việc; tiếp tục thực hiện đơn giản hoá thủ tục hành chính, duy trì và phát huy hiệu quả cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” tạo thuận lợi cho cá nhân và tổ chức.
Hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp có nhiều đổi mới và nâng cao chất lượng cả về nội dung, phương thứchoạt động; việc ban hành nghị quyết đã bám sát với điều kiện thực tế, thu hút được nhiều nguồn lực cho phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội; các hoạt động giám sát, tiếp xúc cử tri ngày càng đi vào chiều sâu, có trọng tâm, trọng điểm; công tác tham vấn nhân dân bước đầu mang lại hiệu quả; mối quan hệ phối hợp giữa Hội đồng nhân dân và các cơ quan, tổ chức ngày càng được tăng cường; công tác tiếp dân và giám sát việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân; việc giải quyết và trả lời các ý kiến, kiến nghị của cử tri được thực hiện đúng quy định.
Công tác quản lý, điều hành của uỷ ban nhân dân các cấp được nâng lên, kịp thời cụ thể hoá các chủ trương, định hướng phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của Đảng, Nhà nước sát với tình hình thực tế của địa phương. Triển khai thực hiện có hiệu quả các giải pháp về tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, phát triển sản xuất nông - lâm nghiệp, chương trình xây dựng nông thôn mới, xây dựng kết cấu hạ tầng, quy hoạch và quản lý quy hoạch, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, công tác thu chi ngân sách, các lĩnh vực văn hóa - xã hội và công tác quốc phòng, quân sự địa phương; quan tâm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, mở rộng, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, phát triển thị trường, đẩy mạnh xuất, nhập khẩu...
8- Vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân được phát huy, góp phần tích cực xây dựng Đảng, chính quyền và khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức hội quần chúng được củng cố về tổ chức, từng bước đổi mới về nội dung, phương thức hoạt động, đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân theo hướng thiết thực, hiệu quả, hướng mạnh về cơ sở, quan tâm đến vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn; tích cực phối hợp với các cấp uỷ đảng, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể, thường xuyên bám sát tình hình thực tiễn của địa phương, đơn vị, cơ sở, nắm bắt diễn biến, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, vận động nhân dân chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, củng cố niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, quản lý điều hành của Nhà nước, tạo sự đồng thuận trong xã hội. Tổ chức phát động nhiều phong trào thi đua, nhiều cuộc vận động được đông đảo đoàn viên, hội viên và nhân dân, hưởng ứng tham gia, tiêu biểu là các phòng trào, các cuộc vận động: "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư", “Chung tay xây dựng nông thôn mới”, "Ngày vì người nghèo", "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam", "Mái ấm công đoàn", "Thanh niên xung kích tình nguyện phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc", "Phụ nữ tích cực, học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc", “Nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp đỡ nhau làm giàu, giảm nghèo bền vững”, "Tết vì người nghèo và nạn nhân chất độc da cam", ... Vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội được nâng lên, góp phần tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền đạt được những kết quả tích cực, có nhiều đổi mới sáng tạo về phương thức, cách thức triển khai, phát huy được quyền làm chủ của nhân dân trên nhiều lĩnh vực.
II- NHỮNG HẠN CHẾ, YẾU KÉM VÀ NGUYÊN NHÂN
1- Hạn chế, yếu kém
1.1- Lĩnh vực kinh tế
Một số chỉ tiêu chủ yếu chưa đạt mục tiêu đề ra; cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm; sản xuất hàng hoá nông nghiệp chưa phát triển, các sản phẩm nông sản tiêu thụ chủ yếu còn ở dạng thô; tiềm năng lâm nghiệp chưa được phát huy, việc tổ chức liên kết giữa sản xuất – chế biến – tiêu thụ sản phẩm còn hạn chế, chưa thu hút được nhiều doanh nghiệp tham gia đầu tư vào lĩnh vực nông, lâm nghiệp; kinh tế hợp tác xã, trang trại có số lượng ít, quy mô nhỏ; mô hình hợp tác xã kiểu mới chưa được nhân rộng. Kết cấu hạ tầng còn thiếu và yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, nhất là hạ tầng giao thông. Các cơ sở công nghiệp chế biến sâu khoáng sản hoạt động chưa hiệu quả; các dự án thủy điện triển khai chậm. Nguồn lực để thực hiện các Chương trình trọng tâm còn hạn hẹp, kết quả thực hiện một số chương trình trọng tâm còn thấp so với mục tiêu đề ra.
1.2- Lĩnh vực văn hóa - xã hội
Nguồn lực đầu tư cho giáo dục đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế phát triển và đổi mới giáo dục; chất lượng giáo dục ở vùng cao, vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đào tạo nghề, dạy nghề còn thấp; việc mở các trung tâm dạy nghề chưa hợp lý. Công tác khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe nhân dân, nhất là tuyến cơ sở còn hạn chế; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng và tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên còn khá cao. Đời sống của một bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, vùng đồng bào dân tộc thiểu số ít người; sự chênh lệch về mức hưởng thụ văn hoá giữa các vùng, miền còn lớn. Kết quả giảm nghèo chưa bền vững, số hộ tái nghèo và số hộ cận nghèo còn cao.
1.3- Quốc phòng - an ninh, nội chính
Tình hình an ninh trật tự ở một số khu vực biên giới, vùng đồng bào dân tộc thiểu số ít người, tội phạm hình sự, kinh tế, ma tuý còn diễn biến phức tạp. Công tác tuyên tuyền, phổ biến pháp luật ở một số địa phương, đơn vị chưa được thường xuyên, chất lượng chưa cao. Việc triển khai thực hiện kết luận thanh tra, giải quyết khiếu nại một số vụ việc còn chậm, vẫn còn trường hợp khiếu nại, tố cáo vượt cấp. Cơ sở vật chất phục vụ công tác cải cách tư pháp còn thiếu. Tình trạng người dân sang Trung Quốc làm thuê trái phép vẫn còn diễn ra. Công tác quản lý nhà nước về tôn giáo còn có mặt hạn chế.
1.4- Công tác xây dựng Đảng
Phương thức lãnh đạo của các cấp uỷ có mặt còn hạn chế; một số chỉ thị, nghị quyết triển khai còn chậm; việc duy trì và nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng ở một số chi đảng bộ chưa được đảm bảo theo quy định, vai trò hạt nhân chính trị chưa rõ nét; công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở một số cấp uỷ còn khép kín, một số cán bộ, đảng viên chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm trong công tác; chất lượng công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng có mặt còn hạn chế; công tác vận động quần chúng hiệu quả chưa cao.
1.5- Công tác xây dựng chính quyền
Cải cách hành chính ở một số khâu còn chậm, hiệu quả chưa cao; công tác quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực còn yếu. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, chỉ số cải cách hành chính chậm được cải thiện. Công tác chỉ đạo thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm, giải quyết các vấn đề bức xúc tại địa phương có lúc chưa kiên quyết, thiếu chủ động. Việc giải quyết ý kiến cử tri và kiến nghị sau giám sát có một số nội dung chưa triệt để; hoạt động tái giám sát còn ít.
1.6- Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội
Nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội vẫn còn biểu hiện hành chính, có nơi chưa thực sự đổi mới và bám sát nhiệm vụ chính trị của địa phương; việc thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội có mặt còn hạn chế; hiệu quả một số phong trào thi đua, cuộc vận động còn thấp, chưa tạo được sức lan toả rộng khắp.
2- Nguyên nhân
2.1- Nguyên nhân khách quan
Xuất phát điểm nền kinh tế của tỉnh thấp, trình độ nhận thức của nhân dân không đồng đều; điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Thiên tai, dịch bệnh diễn biến khó lường, gây thiệt hại lớn về cơ sở hạ tầng, sản xuất và đời sống của nhân dân.
Kinh tế trong nước gặp nhiều khó khăn do tác động của suy thoái kinh tế thế giới, đầu tư công giảm, nguồn ngân sách nhà nước bố trí cho đầu tư phát triển còn ít. Tình hình diễn biến phức tạp ở Biển Đông gây ảnh hưởng đến hoạt động giao thương, xuất nhập khẩu trên địa bàn tỉnh.
2.2- Nguyên nhân chủ quan
Chất lượng nguồn nhân lực còn thấp; công tác lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp ủy đảng, chính quyền các cấp chưa thực sự quyết liệt, quản lý nhà nước ở một số lĩnh vực còn yếu, chưa sâu sát, cụ thể, hiệu quả chưa cao.
Việc xác định một số chỉ tiêu về chủ trương phát triển kinh tế - xã hội chưa sát với nguồn lực và điều kiện thực tế của địa phương nên có đề án, dự án thực hiện chưa đạt mục tiêu đề ra.
Năng lực, trình độ tổ chức thực hiện nhiệm vụ của một bộ phận cán bộ, công chức còn hạn chế, ý thức, trách nhiệm công vụ chưa cao. Sự phối hợp giữa các cấp, các ngành trong thực hiện một số công việc chung chưa đồng bộ, còn thụ động.
Một bộ phận nhân dân chưa chấp hành nghiêm túc các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại, chưa thực sự vươn lên thoát nghèo.
III- ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
1- Đánh giá tổng quát
Trong nhiệm kỳ qua, phát huy truyền thống cách mạng, đoàn kết, dân chủ, đổi mới, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Cao Bằng đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức và đạt được nhiều kết quả nổi bật, khá toàn diện trên tất cả các lĩnh vực; đã lựa chọn đúng và lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả một số chương trình lớn, trọng tâm mang tính đột phá, nhiều cơ chế chính sách được ban hành đang phát huy hiệu quả; kinh tế ổn định và tiếp tục phát triển, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước được quan tâm đầu tư; một số tiềm năng, lợi thế bước đầu được khai thác có hiệu quả; sự nghiệp giáo dục, đào tạo, công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, xây dựng đời sống văn hoá, xoá đói, giảm nghèo đạt được những kết quả tích cực; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện và nâng lên, diện mạo nông thôn, đô thị có nhiều đổi mới; quốc phòng - an ninh được tăng cường, trật tự an toàn xã hội, chủ quyền biên giới quốc gia được giữ vững; công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo đạt được nhiều kết quả quan trọng; khối đại đoàn kết các dân tộc ngày càng được củng cố vững chắc.
Tuy nhiên, là một tỉnh có vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên không thuận lợi, xa các trung tâm kinh tế của đất nước, giao thông đi lại khó khăn, nguồn lực đầu tư phát triển còn hạn chế, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn thiếu và yếu; tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo cao, đời sống của một bộ phận nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới còn nhiều khó khăn, thiếu thốn... đến nay, Cao Bằng vẫn là tỉnh nghèo và chậm phát triển.
2- Bài học kinh nghiệm
Một là, thường xuyên chăm lo củng cố, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; đoàn kết, sáng tạo, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, chú trọng vai trò nêu gương cá nhân, đặc biệt là người đứng đầu; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Hai là, trong lãnh đạo phải bám sát nhiệm vụ chính trị và thực tiễn, kiên trì, quyết liệt, chủ động, sáng tạo trong chỉ đạo, điều hành; kịp thời cụ thể hoá các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; xác định, lựa chọn và giải quyết tốt những khâu, nhiệm vụ mang tính đột phá, then chốt phù hợp với điều kiện thực tiễn ở địa phương; bố trí, sử dụng nguồn vốn hợp lý có trọng tâm, trọng điểm.
Ba là, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng dịch vụ công; tăng cường phân cấp quản lý, phát huy tính chủ động sáng tạo của từng cấp, từng ngành.
Bốn là, tập trung phát huy nội lực và tiềm năng lợi thế của địa phương; tranh thủ sự ủng hộ giúp đỡ của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các ban, bộ, ngành Trung ương; không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác, liên doanh, liên kết để thu hút đầu tư phát triển kinh tế - xã hội.
Năm là, xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đảm bảo sự đoàn kết thống nhất trong hệ thống chính trị, tạo sự đồng thuận trong nhân dân; nâng cao chất lượng, hiệu quả các phong trào thi đua yêu nước gắn với các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, nhiệm vụ chính trị của từng địa phương, đơn vị.
Phần thứ hai
PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU 5 NĂM (2015 - 2020)
I- DỰ BÁO BỐI CẢNH TÌNH HÌNH TRONG 5 NĂM TỚI
Trong những năm tới, kinh tế thế giới tiếp tục phục hồi nhưng còn tiềm ẩn nhiều yếu tố bất ổn, xung đột sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ ở nhiều khu vực trên thế giới còn tiềm ẩn nhiều yếu tố khó lường. Những vấn đề toàn cầu như: an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, thiên tai dịch bệnh sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp; quá trình hội nhập kinh tế thế giới và khu vực ngày càng sâu rộng, với việc ký kết và triển khai thực hiện nhiều hiệp định thương mại là những cơ hội lớn cho đất nước, song cũng sẽ tạo ra nhiều thách thức cho sự phát triển của cả nước nói chung và tỉnh Cao Bằng nói riêng.
Là một tỉnh miền núi có đường biên giới dài, địa hình hình phức tạp, xa các trung tâm lớn của cả nước; nguồn lực đầu tư hạn hẹp, kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ; dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ cao (trên 95%); chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, mức sống của nhân dân còn thấp, an ninh trật tự xã hội trên địa bàn còn tiềm ẩn những yếu tố phức tạp, là những yếu tổ ảnh hưởng đến sự phát triển của tỉnh.
Thành tựu 30 năm đổi mới, thế và lực của đất nước ta lớn mạnh hơn, tình hình chính trị - xã hội ổn định, quy mô và tiềm lực kinh tế được nâng cao tiếp tục là nền tảng vững chắc cho sự phát triển trong giai đoạn tới. Trên cơ sở tiềm năng, lợi thế đã được xác định và bước đầu phát huy hiệu quả; định hướng phát triển chung của tỉnh trong những năm tiếp theo và một số chủ trương lớn đã được Trung ương kết luận như: phát triển nông nghiệp hàng hóa, kinh tế cửa khẩu, du lịch, kết nối giao thông,... cùng với những kết quả đạt được trong những năm qua, kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo, điều hành của cấp ủy, chính quyền các cấp sẽ là những tiền đề vững chắc để Cao Bằng tiếp tục phát triển bền vững.
II- PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU
1- Phương hướng
Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng và đảng viên; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Tập trung huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; khai thác tốt tiềm năng, lợi thế để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao hiệu quả, phát triển bền vững, nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Quan tâm mọi mặt đời sống xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc đường biên, mốc giới, chủ quyền lãnh thổ quốc gia, xây dựng biên giới hoà bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển.
2 - Mục tiêu tổng quát
Phát huy tinh thần đoàn kết, dân chủ, sáng tạo; tiếp tục xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; huy động tối đa mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển; không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, quyết tâm đưa Cao Bằng trở thành tỉnh năng động, phát triển.
3- Chỉ tiêu chủ yếu
* Phát triển kinh tế
(1) Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) đạt tốc độ tăng bình quân trên 7,0%/năm;
(2) GDP bình quân đầu người đạt 1.650 USD.
(3) Tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình quân tăng trên 10%/năm.
(4) Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn bình quân mỗi năm tăng trên 10%.
(5) Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu qua địa bàn tăng bình quân mỗi năm trên 10%.
(6) Tổng sản lượng lương thực có hạt trên 265 ngàn tấn/năm; giá trị sản xuất nông nghiệp đạt trên 40 triệu đồng/ha.
(7) Số xã được công nhận đạt tiêu chí nông thôn mới đạt 20 xã trở lên.
* Lĩnh vực văn hoá - xã hội
(8) Duy trì, nâng cao chất lượng các bậc học, cấp học; hằng năm mỗi huyện, Thành phố có ít nhất 01 trường đạt chuẩn quốc gia; đến năm 2020 có 35% số xã đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi mức độ II.
(9) Đến năm 2020 có 60% xã đạt tiêu chí quốc gia về y tế xã; có 15 bác sỹ/1 vạn dân; 96% dân số tham gia bảo hiểm y tế.
(10) Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 0,88%.
(11) Tỷ lệ gia đình đạt tiêu chuẩn văn hóa 85%; tỷ lệ làng, xóm, tổ dân phố đạt tiêu chuẩn văn hóa 55%; số xóm có nhà văn hóa 78,8%; số cơ quan đơn vị đạt tiêu chuẩn văn hoá đạt 90%.
(12) Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 45%, trong đó đào tạo nghề 33%; có 50% lực lượng lao động tham gia bảo hiểm xã hội; 35% lực lượng lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp.
(13) Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân hằng năm đạt trên 2%.
* Lĩnh vực môi trường
(14) Tỷ lệ che phủ rừng: 53%.
(15) Phấn đấu 50% số hộ chăn nuôi đưa gia súc ra khỏi gầm sàn.
(16) Tỷ lệ dân số thành thị được sử dụng nước sạch đạt 95%; tỷ lệ dân số nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt trên 90%.
* Xây dựng Đảng
(17) Tỷ lệ tổ chức cở sở đảng đạt tiêu chuẩn trong sạch, vững mạnh hằng năm đạt 50%; bình quân hằng năm kết nạp mới 2.000 đảng viên.
III- NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP
1- Một số nhiệm vụ trọng tâm
1.1- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới phương thức lãnh đạo, phong cách, lề lối làm việc của cấp uỷ đảng, chính quyền các cấp.
1.2- Thực hiện đồng bộ các giải pháp tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới.
1.3- Đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư; huy động các nguồn lực đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là hạ tầng giao thông; tập trung khai thác có hiệu quả lợi thế về kinh tế cửa khẩu, du lịch.
1.4- Mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác và hội nhập quốc tế, tăng cường quốc phòng - an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới, lãnh thổ quốc gia.
1.5- Thực hiện có hiệu quả các chính sách an sinh xã hội, giải quyết việc làm, nâng cao chất lượng đời sống nhân dân, giảm nghèo nhanh và bền vững.
2- Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu
2.1- Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế; chú trọng phát triển thương mại dịch vụ, phát huy có hiệu quả tiềm năng về nông nghiệp - công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp
Thực hiện có hiệu quả việc cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao chất lượng sản phẩm gắn với Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Đa dạng hoá việc huy động các nguồn lực đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông thôn, chú trọng phát huy nội lực từ chính người nông dân, khuyến khích tham gia đầu tư của các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế; sử dụng có hiệu quả nguồn lực của nhà nước và tư nhân để xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, trong đó ưu tiên đầu tư phát triển hệ thống giao thông nội vùng, nội đồng, đường thôn xóm và thuỷ lợi, nhất là các công trình thuỷ lợi nhỏ ở vùng cao, vùng sâu để cấp nước tưới và phục vụ sinh hoạt; đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế hợp tác xã, trang trại, gia trại; đẩy mạnh liên kết “4 nhà”, chú trọng phát triển dịch vụ trong sản xuất nông, lâm nghiệp; phát triển các làng nghề, nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho lao động nông thôn, tăng cường tập huấn chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, nâng cao thu nhập, đời sống của người lao động vùng nông thôn, tạo tiền đề nội lực vững chắc để xây dựng nông thôn mới.
Tăng cường đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nâng cao giá trị và hiệu quả kinh tế trên 1 đơn vị diện tích, tiếp tục phát triển các vùng sản xuất chuyên canh như: cây mía, thuốc lá, trúc sào và một số cây trồng khác có giá trị kinh tế cao... Quan tâm phát triển rừng kinh tế gắn với bảo vệ diện tích rừng tự nhiên, đặc biệt là rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, các khu rừng đặc dụng; xây dựng cơ chế chính sách thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực sản xuất, chế biến nông, lâm sản.
Chú trọng phát triển chăn nuôi đại gia súc, từng bước chuyển đổi từ chăn nuôi nhỏ lẻ sang phát triển chăn nuôi tập trung, có cơ chế chính sách hỗ trợ tổ chức sản xuất khép kín hoặc liên kết các khâu trong chuỗi giá trị từ khâu sản xuất giống, thức ăn đến chế biến để nâng cao năng suất, giảm chi phí, tăng hiệu quả và giá trị gia tăng, giảm thiểu ô nhiễm môi trường và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
Khuyến khích phát triển dịch vụ cung ứng vật tư nông nghiệp phục vụ cho sản xuất. Tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ khuyến nông, khuyến lâm xã, thôn; làm tốt công tác dự báo, phòng chống dịch bệnh kịp thời đảm bảo an toàn cho sản xuất. Triển khai có hiệu quả kế hoạch sử dụng đất trong nội bộ ngành nông nghiệp, ưu tiên chuyển đổi các cây trồng có hiệu quả kinh tế cao.
Tiếp tục phát huy năng lực sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp hiện có; thực hiện cơ cấu lại các cơ sở sản xuất công nghiệp phù hợp với điều kiện thực tế của tỉnh, chú trọng phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế so sánh với công nghệ tiên tiến như: sản xuất phôi thép, chì kẽm, khai thác và chế biến bauxit, khai thác mỏ chì, kẽm Bản Bó, Bản Lìn (Bảo Lâm), xây dựng nhà máy chế biến chì thỏi, các nhà máy thủy điện Bảo Lâm 1,2,3,4, các bậc thang thủy điện trên sông Bằng Giang, các công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật các khu, cụm công nghiệp… Ưu tiên phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp và nông thôn, đặc biệt là chế biến nông, lâm sản như chế biến gỗ, trúc sào, thuốc lá, chè đặc sản, cây dược liệu... có cơ chế hỗ trợ, khuyến khích các loại hình doanh nghiệp, hợp tác xã phát triển.
Ưu tiên đầu tư cho các hoạt động ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ vào các lĩnh vực của đời sống xã hội gắn với yêu cầu phát triển của từng ngành, lĩnh vực, sản phẩm và hoạt động sản xuất kinh doanh. Đổi mới cơ chế quản lý đề tài, nhiệm vụ khoa học theo hướng mỗi đề tài, nhiệm vụ cần có địa chỉ áp dụng cụ thể. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ, từng bước hình thành các cơ quan tư vấn, đội ngũ chuyên gia, cán bộ khoa học của tỉnh trên các lĩnh vực. Phát huy tốt vai trò của Liên hiệp các Hội khoa học kỹ thuật tỉnh trong xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức, làm tốt công tác tư vấn, phản biện, nâng cao tính khả thi, hiệu quả của các chính sách, chương trình, dự án.
Xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường, kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện nội dung bảo vệ môi trường trong các quy hoạch, kế hoạch phát triển, các chương trình, dự án đầu tư; kiên quyết ngăn chặn và xử lý nghiêm các hành vi gây ô nhiễm môi trường. Quản lý và khai thác sử dụng hợp lý, hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên, thực hiện tốt Chương trình mục tiêu Quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu; chủ động, tích cực phòng, chống thiên tai.
Đẩy mạnh liên kết vùng trong phát triển kinh tế - xã hội; khai thác thị trường trong nước và quốc tế gắn với phát triển mạnh thị trường trong tỉnh. Đảm bảo lưu thông hàng hoá thông suốt, cân đối cung cầu về những mặt hàng trọng yếu; xây dựng ngành thương mại phát triển theo hướng kết hợp truyền thống và văn minh hiện đại dựa trên cơ cấu ngành hợp lý với sự tham gia của các thành phần kinh tế, vận hành trong môi trường cạnh tranh, bình đẳng có sự quản lý, điều tiết của Nhà nước. Huy động các nguồn lực đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng thương mại, dịch vụ như: chợ cửa khẩu, siêu thị, chợ đầu mối, chợ vùng nông thôn...
Phát triển khu kinh tế cửa khẩu gắn kết chặt chẽ với quy hoạch phát triển tổng thể kinh tế - xã hội của tỉnh, trong đó lấy thương mại cửa khẩu là động lực chính để phát triển. Từng bước hoàn thiện kết cấu hạ tầng theo hướng đồng bộ, tập trung, hình thành các trung tâm thương mại và tổ hợp dịch vụ Logistics tạo sức lan tỏa và liên kết theo hướng mở, hội nhập kinh tế quốc tế. Khai thác có hiệu quả tiềm năng của khu vực kinh tế cửa khẩu, xây dựng Khu kinh tế cửa khẩu Cao Bằng trở thành một trọng điểm phát triển của tỉnh, là cửa ngõ trong kết nối quan hệ thương mại ASEAN - Việt Nam - Trung Quốc. Tiếp tục đầu tư cho các dự án chuyển tiếp đang thực hiện tại Khu kinh tế cửa khẩu sớm đưa dự án đi vào hoạt động; thực hiện đa dạng hoá các hình thức thu hút đầu tư khuyến khích các nguồn vốn cả trong và ngoài nước, sử dụng các hình thức: đầu tư - chuyển giao (BT), đầu tư - kinh doanh - chuyển giao (BOT)... khuyến khích đầu tư các dự án phát triển hạ tầng kỹ thuật và các dự án kinh doanh, sản xuất trong Khu kinh tế cửa khẩu. Tăng cường các hoạt động thương mại biên giới với Trung Quốc, các cặp cửa khẩu song phương, các lối mở. Thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về kinh tế cửa khẩu, các cửa khẩu phụ, lối mở; các biện pháp phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại, giữ gìn ổn định an ninh biên giới.
Quản lý tốt các nguồn thu, có kế hoạch nuôi dưỡng và tạo nguồn thu mới ổn định và phát triển, chống thất thu ngân sách; khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn thu từ đất đai, tài nguyên khoáng sản và các nguồn thu khác để tập trung cho đầu tư phát triển.
2.2- Tập trung huy động, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tạo bước đột phá trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
Tiếp tục đề nghị Bộ Chính trị, Quốc hội, Chính phủ, các ban, bộ, ngành Trung ương triển khai nâng cấp toàn tuyến Quốc lộ 4a theo quy hoạch đã được duyệt; xây dựng tuyến đường cao tốc Lạng Sơn - Cao Bằng; đường nối cao tốc từ Chợ Mới - Bắc Kạn lên Cao Bằng; đầu tư nâng cấp quốc lộ 34, đường vành đai và kè sông suối biên giới; bổ sung quy hoạch đầu tư xây dựng sân bay Thành phố Cao Bằng.
Đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các tuyến đường giao thông trọng điểm trên địa bàn tỉnh; đầu tư nâng cấp các tuyến giao thông trọng điểm, nhất là các tuyến đường kết nối với các cửa khẩu, điểm trao đổi hàng hóa với Trung Quốc, các tuyến đường đến các khu du lịch của tỉnh. Nâng cấp các tuyến đường đến trung tâm các xã đảm bảo đi lại được bốn mùa, có cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư xây dựng hệ thống đường giao thông nông thôn, đường nội vùng phục vụ sản xuất nông, lâm nghiệp hàng hoá; bố trí hợp lý các nguồn vốn để ưu tiên xây dựng các công trình thủy lợi, cấp nước, giải quyết cơ bản nước sinh hoạt cho đồng bào vùng cao; gia cố, sửa chữa, xây dựng hệ thống kè chống xói lở bờ sông, bờ suối, các khu vực có nguy cơ sạt lở cao. Ưu tiên đầu tư xây dựng lưới điện cho các khu công nghiệp, khu du lịch, khu dân cư mới, địa bàn có tốc độ phát triển đô thị nhanh để đảm bảo đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống cho người dân.
Đẩy mạnh việc thực hiện các quy hoạch vùng, tỉnh; tập trung hoàn thiện các tiêu chí đô thị loại III của Thành phố Cao Bằng, trong đó một số tiêu chí đáp ứng tiêu chuẩn đô thị loại II; xây dựng huyện Phục Hoà trở thành thị xã trực thuộc tỉnh; tiếp tục quan tâm chỉnh trang, nâng cấp các thị trấn, thị tứ đạt tiêu chí đô thị loại V. Đẩy mạnh việc thực hiện các chủ trương về phát triển và khai thác quỹ đất, tạo vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng theo phương châm hợp tác công tư. Hoàn thiện kết cấu hạ tầng khu vực cửa khẩu quốc tế Tà Lùng, cửa khẩu chính Trà Lĩnh, cửa khẩu Sóc Giang và các cửa khẩu phụ, lối mở trong Khu kinh tế cửa khẩu tỉnh.
2.3- Tăng cường xã hội hoá các lĩnh vực văn hoá – xã hội; nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khỏe nhân dân; chăm lo phát triển văn hóa, đảm bảo an sinh xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân
Tạo sự chuyển biến căn bản, toàn diện về chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo. Chú trọng giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng sống, kỹ năng thực hành, phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; đổi mới đồng bộ phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực, phẩm chất người học. Duy trì, củng cố, nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục các bậc học. Phát triển, quy hoạch hệ thống mạng lưới trường, lớp học; xây dựng và nâng cấp các trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú, các trường mầm non ở các xã vùng đặc biệt khó khăn; xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên đủ về số lượng, đảm bảo về cơ cấu, chất lượng, từng bước nâng cao chất lượng giáo dục vùng dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn, các trường chuyên biệt, trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú. Sắp xếp, tổ chức lại các trung tâm giáo dục thường xuyên và hướng nghiệp, trung tâm dạy nghề trên địa bàn; rà soát quy hoạch các trường cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, trung cấp nghề để thực hiện phân luồng sau trung học cơ sở; liên thông giữa các cấp học và trình độ đào tạo, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực.
Đầu tư nâng cấp hệ thống bệnh viện tuyến tỉnh, tuyến huyện, phòng khám đa khoa khu vực, các trung tâm y tế và các trạm y tế xã; khuyến khích phát triển các bệnh viện tư nhân, các dịch vụ khám, chữa bệnh. Đa dạng hóa các hình thức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác y tế, đặc biệt là đào tạo sau đại học và đào tạo chuyên sâu. Quan tâm chăm sóc sức khoẻ ban đầu, phát triển mạng lưới y tế dự phòng, chủ động phòng bệnh không để xảy ra dịch bệnh lớn. Đẩy mạnh kết hợp y học cổ truyền với y học hiện đại trong công tác khám, chữa bệnh; tăng cường ứng dụng các thiết bị y tế hiện đại trong chẩn đoán và điều trị bệnh; phát triển mạng lưới lưu thông, phân phối và cung ứng thuốc; duy trì thực hiện các loại hình bảo hiểm y tế… đảm bảo mọi người dân tiếp cận được dịch vụ chăm sóc sức khỏe với chất lượng ngày càng cao. Nâng cao chất lượng công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình, bình đẳng giới, bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ trẻ em.
Thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 09/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. Bảo tồn giữ gìn và phát huy các giá trị tốt đẹp của văn hóa dân tộc; tiếp tục triển khai quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Cao Bằng giai đoạn 2011 – 2020, tầm nhìn 2030; bảo vệ, tu bổ, tôn tạo các di tích văn hoá, lịch sử, tâm linh, kết hợp với gìn giữ và phát huy giá trị cảnh quan thiên nhiên, các danh lam thắng cảnh; tăng cường quảng bá, xúc tiến du lịch; tiếp tục đầu tư xây dựng Khu di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt Pác Bó, Rừng Trần Hưng Đạo, Khu du lịch thác Bản Giốc trở thành khu du lịch quốc gia vào năm 2020.
Tiếp tục phát triển các lĩnh vực văn hoá, thể thao gắn kết chặt chẽ với các quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội; có cơ chế khuyến khích văn nghệ sỹ, nghệ nhân phát huy tài năng, năng lực sáng tác, quảng bá văn học, nghệ thuật, văn hóa dân gian; trọng dụng, tôn vinh trí thức, văn nghệ sỹ, nghệ nhân, chú trọng bồi dưỡng năng khiếu và tài năng trẻ; nâng cao chất lượng nghệ thuật chuyên nghiệp, xây dựng và phát triển một số loại hình văn hoá đặc sắc của tỉnh như Đàn tính - Hát then thành Lễ hội lớn trong vùng. Nâng cao chất lượng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” gắn với xây dựng nông thôn mới. Xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thể thao; đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”, chú trọng đào tạo vận động viên trẻ, có năng khiếu, nâng cao chất lượng thể thao thành tích cao; đầu tư xây dựng, nâng cấp cơ sở vật chất cho các thiết chế văn hóa, thể thao ở cơ sở như: nhà thi đấu đa năng, bảo tàng tổng hợp tỉnh, các trung tâm văn hóa huyện, Thành phố; nhà văn hóa xã, phường, thị trấn, các trung tâm thể thao, sân vận động, bể bơi, các khu vui chơi giải trí... Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan báo chí, xuất bản, sáng tác văn học, nghệ thuật; tăng kỳ xuất bản Báo Cao Bằng và một số ấn phẩm báo chí, ấn phẩm văn học nghệ thuật, coi trọng xuất bản một số ấn phẩm báo chí, văn học nghệ thuật bằng tiếng dân tộc thiểu số; tăng thời lượng phát sóng, phát thanh truyền hình Cao Bằng trên vệ tinh VINASAT-1, đảm bảo thực hiện lộ trình thực hiện Đề án truyền dẫn phát sóng truyền hình số mặt đất đến năm 2020; triển khai thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 01/7/2014 của Bộ chính trị về “Đẩy mạnh ứng dựng phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế”; quan tâm đầu tư cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông, đẩy mạnh các hoạt động thông tin cơ sở, thông tin đối ngoại. Tiếp tục phát triển mạng lưới viễn thông, nâng cao chất lượng dịch vụ đảm bảo thông tin liên lạc thông suốt phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh.
Đẩy mạnh liên kết giữa các cơ sở đào tạo nghề và các doanh nghiệp để dạy nghề kết hợp với giải quyết việc làm cho người lao động; chú trọng công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn; tích cực tham gia thị trường lao động trong nước và xuất khẩu lao động. Thường xuyên chăm lo cho các đối tượng chính sách, người có công với nước; phát huy vai trò trách nhiệm của hệ thống chính trị, cộng đồng, người lao động trong việc tổ chức thực hiện Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm y tế, Luật Việc làm. Làm tốt công tác phòng, chống các tệ nạn xã hội, chăm lo đời sống người cao tuổi, người khuyết tật. Thực hiện đồng bộ, hiệu quả các chương trình, dự án xóa đói giảm nghèo bền vững, các chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn, khu vực biên giới; làm tốt công tác quản lý nhà nước về công tác dân tộc, tôn giáo.
2.4- Tăng cường, củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới quốc gia, xây dựng biên giới hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”; Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 22/9/2008 của Bộ Chính trị (khóa X), Nghị định 152/2007/NĐ-CP của Chính phủ về “Xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành Khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới”. Củng cố nền quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân. Kết hợp chặt chẽ việc phát triển kinh tế với xây dựng tiềm lực quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang địa phương vững mạnh về mọi mặt. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị định 77/2010/NĐ-CP của Chính phủ. Tăng cường công tác nắm tình hình tại các địa bàn trọng điểm, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới; giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, làm thất bại mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, không để bị động bất ngờ.
Xây dựng lực lượng vũ trang địa phương cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Quan tâm xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên và cơ quan quân sự các cấp vững mạnh toàn diện, nâng cao chất lượng huấn luyện, diễn tập; bố trí đất thao trường huấn luyện, đầu tư các công trình quốc phòng - an ninh. Tăng cường công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh cho các đối tượng theo phân cấp; nâng cao ý thức trách nhiệm của các cấp, các ngành, nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc kết hợp đẩy mạnh phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, tạo sức mạnh tổng hợp trong đấu tranh, phòng ngừa làm giảm các loại tội phạm và tệ nạn xã hội.
Đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết 48–NQ/TW, ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”; Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”; quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tư pháp có đầy đủ phẩm chất, năng lực, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Đầu tư cơ sở vật chất, đảm bảo hoạt động của các cơ quan tư pháp, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, đảng viên và người dân; giải quyết kịp thời các đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân.
2.5- Mở rộng và nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân và đối ngoại quốc phòng; tăng cường mở rộng hợp tác và hội nhập quốc tế
Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa hoạt động đối ngoại của các cấp uỷ đảng, chính quyền và đối ngoại nhân dân; tăng cường công tác ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hoá theo chủ trương đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả các chương trình hợp tác đã thỏa thuận, ký kết với Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, Trung Quốc; đẩy mạnh việc đầu tư, nâng cấp cơ sở hạ tầng các cửa khẩu, khu hợp tác kinh tế; nỗ lực thúc đẩy kết nối tuyến vận tải quốc tế từ các tỉnh phía Tây Nam Trung Quốc (Trùng Khánh, Quý Châu) đến thành phố Bách Sắc qua cửa khẩu Trà Lĩnh (Cao Bằng) đi Lạng Sơn và thành phố Hải Phòng; tranh thủ cơ chế hợp tác Khu mậu dịch tự do Trung Quốc - ASEAN, khuôn khổ cơ chế hợp tác tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Chương trình hợp tác tiểu vùng Mê Kông mở rộng (GMS) và lợi thế khi Việt Nam gia nhập Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Duy trì và mở rộng quan hệ với cơ quan đại diện ngoại giao, tổ chức quốc tế đã có quan hệ với địa phương; thiết lập quan hệ hợp tác hữu nghị với một số địa phương thuộc Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ixaren và các nước trong khu vực ASEAN. Chủ động tiếp cận các đối tác nước ngoài khác để tìm kiếm cơ hội hợp tác, thu hút đầu tư, mở rộng thị trường.
Tăng cường công tác phối hợp giữa các lực lượng công an, biên phòng tỉnh Cao Bằng (Việt Nam) với tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) trong quản lý biên giới, đấu tranh phòng chống tội phạm, quản lý xuất nhập cảnh, đảm bảo trật tự an toàn khu vực biên giới, phối hợp giải quyết có hiệu quả các vụ việc phát sinh trên biên giới, xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.
2.6- Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức Đảng, hiệu lực quản lý, điều hành của chính quyền các cấp, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới
Quán triệt và vận dụng sáng tạo các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào điều kiện cụ thể của địa phương; nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là thế hệ trẻ. Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay" gắn với đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và thực hiện Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 07/6/2015 của Ban Bí thư về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt”; thực hiện tốt việc tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng.
Thường xuyên củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy các tổ chức đảng từ tỉnh đến cơ sở. Nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp uỷ, sinh hoạt chi bộ; duy trì 100% xóm có chi bộ; quan tâm phát triển đảng viên trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ít người, chiến sỹ nghĩa vụ trong các lực lượng vũ trang, doanh nghiệp; chú trọng chất lượng kết nạp đảng viên mới.
Thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ công chức, viên chức; tăng cường công tác điều động, luân chuyển cán bộ; tiếp tục thực hiện có hiệu quả Chương trình nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở, Đề án về vị trí việc làm, tiêu chuẩn chức danh cán bộ, công chức. Xây dựng đội ngũ chuyên gia giỏi, nhất là đội ngũ cán bộ, công chức tham mưu cấp chiến lược.
Phát huy vai trò, trách nhiệm của cấp uỷ các cấp trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ công tác kiểm tra, giám sát; chú trọng nâng cao chất lượng hoạt động của ủy ban kiểm tra các cấp; thực hiện tốt quy chế phối hợp giữa Uỷ ban kiểm tra với các tổ chức đảng và các ngành liên quan; phát hiện, đấu tranh và xử lý kịp thời với những cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống và các biểu hiện tiêu cực khác, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong Đảng. Thường xuyên kiện toàn tổ chức bộ máy ủy ban kiểm tra các cấp; xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra có phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao.
Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận gắn với xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh. Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị, công tác dân vận trong các cơ quan Nhà nước. Thường xuyên nắm bắt diễn biến tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, kịp thời tham mưu với cấp uỷ và chủ động triển khai thực hiện chủ trương, giải pháp xây dựng và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân; thực hiện tốt công tác dân tộc, công tác tôn giáo, vận động nhân dân tích cực tham gia thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Tiếp tục quan tâm lãnh đạo thực hiện có hiệu quả phong trào thi đua “Dân vận khéo” và nhân rộng các mô hình điển hình dân vận khéo trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương, công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, đơn vị. Đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức trong việc phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Phát huy vai trò của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các phương tiện thông tin đại chúng và nhân dân trong việc đấu tranh, phát hiện các hành vi tiêu cực, tham nhũng; làm tốt công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, phát hiện và xử lý nghiêm minh các tổ chức, cá nhân vi phạm. Nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại tố cáo, hạn chế phát sinh các khiếu nại vượt cấp, giải quyết dứt điểm các vụ việc khiếu kiện tồn đọng, kéo dài.
Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng đối với hội đồng nhân dân các cấp; nâng cao chất lượng các kỳ họp hội đồng nhân dân, đổi mới hoạt động tiếp xúc cử tri, chất vấn và trả lời chất vấn; thực hiện tốt việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do hội đồng nhân dân bầu và phê chuẩn. Tăng cường công tác giám sát, tái giám sát đối với các cơ quan quản lý nhà nước trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, nghị quyết của hội đồng nhân dân các cấp. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực của đại biểu hội đồng nhân dân các cấp. Chỉ đạo tổ chức tốt bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021.
Tiếp tục đổi mới phương thức quản lý, điều hành của chính quyền các cấp theo hướng sâu sát, cụ thể, quyết liệt và hiệu quả. Tăng cường phân cấp cho cấp huyện và cấp xã; nâng cao trách nhiệm của các cơ quan chuyên môn thuộc uỷ ban nhân dân các cấp. Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao chất lượng hoạt động của bộ phận “một cửa”, “một cửa liên thông” để rút ngắn thời gian giải quyết công việc cho nhà đầu tư, doanh nghiệp và nhân dân; chú trọng ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của các cơ quan, đơn vị; nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh. Tăng cường kỷ luật trong bộ máy hành chính, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị, năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
2.7- Đổi mới hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể; xây dựng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Thường xuyên củng cố, kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng; đa dạng hóa các hình thức tập hợp, phát động các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động hướng mạnh về cơ sở; nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tích cực tham gia hưởng ứng các phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá", "Chung tay xây dựng nông thôn mới", “Bảo vệ an ninh Tổ quốc”, giữ gìn và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc, xoá bỏ những tập tục lạc hậu, xây dựng nếp sống văn minh. Thực hiện có hiệu quả Quyết định số 217-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị về ”Ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội” và Quyết định số 218-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị về “Ban hành quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị – xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền”; phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể nhân dân góp phần tích cực tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh.
Phát triển đội ngũ công nhân và đội ngũ trí thức về cả chất lượng và số lượng, có bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động. Xây dựng mối quan hệ hài hoà giữa người sử dụng lao động và người lao động; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động và doanh nghiệp. Tạo điều kiện cho nông dân được hưởng lợi từ các cơ chế chính sách và tiếp cận các nguồn vốn để phát triển sản xuất. Tăng cường giáo dục truyền thống, lý tưởng, đạo đức, lối sống, tạo môi trường để thanh niên học tập, cống hiến và phát triển, xung kích, sáng tạo trên các lĩnh vực. Nâng cao trình độ mọi mặt, đời sống vật chất, tinh thần, vị thế, vai trò của phụ nữ trong gia đình và xã hội. Phát huy vai trò của cựu chiến binh, cựu quân nhân trong việc tham gia phát triển kinh tế, xây dựng, bảo vệ Đảng, chính quyền và giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ. Quan tâm chăm sóc, phát huy vai trò, kinh nghiệm của người cao tuổi trong xã hội và gia đình.
Kế thừa, phát huy truyền thống quê hương cách mạng và những thành tựu đã đạt được, với tinh thần Đoàn kết - Dân chủ - Đổi mới - Phát triển, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Cao Bằng quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thách thức, phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra, xây dựng Cao Bằng ngày càng phát triển về mọi mặt.
BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ TỈNH CAO BẰNG